PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI ĐƯA HỐI LỘ TRONG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC - KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
TS. Nguyễn Thị Thu Trang*
Bài viết được công bố tại nguồn sau:
Nguyễn Thị Thu Trang (2025), Pháp luật về hành vi đưa hối lộ trong khu vực
ngoài nhà nước -Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Pháp luật
và phát triển, số 2+3/2025, 111-122.
File PDF:
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI ĐƯA HỐI LỘ TRONG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC - KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ GỢI Ý CHO VIỆT NAM
Tóm tắt: Tham nhũng là hiện tượng xã hội xảy ra không chỉ trong khu vực nhà nước mà còn xảy ra trong khu vực ngoài nước. Một trong những hành vi tham nhũng phổ biến đó là hành vi đưa hối lộ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số quốc gia như Trung Quốc và Hoa Kỳ về hành vi đưa hối lộ; chỉ ra kinh nghiệm của các quốc gia trên về việc xác định hành vi đưa hối lộ, chủ thể tham gia, chứng cứ hối lộ và chế tài áp dụng đối với hành vi đưa hối lộ. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm hạn chế hành vi đưa hối lộ trong khu vực ngoài nhà nước tại Việt Nam.
Từ khóa: chế tài, khu vực ngoài nhà nước, hối lộ, tham nhũng.
Abstract: Corruption is a social phenomenon that occurs not only in the state sector but also in the non-state sector. Bribery is one of the common forms of corruption. In this article, the author draws a comparison between Vietnamese law and the bribery laws of various countries, including China and the United States. As a result, the article highlights the experiences of various countries in defining bribery, identifying participants, identifying evidence of bribery, and implementing sanctions related to bribery. On that basis, the article recommends improving the law to limit bribery in the non-state sector in Vietnam.
Keywords: sanctions, non-state sector, bribery, corruption.
1. Hành vi đưa hối lộ trong khu vực ngoài nhà nước
Khu vực ngoài nhà nước được xác định dựa vào những yếu tố sau:
Thứ nhất, dưới góc độ quyền lực: Quyền lực là tiềm năng (năng lực, khả năng) của chủ thể tác động đến chủ thể khác nhằm đạt đến kết quả theo ý chí của mình thông qua các nguồn lực, phương tiện nhất định.[1] Theo đó, quyền lực nhà nước là tiềm năng của chủ thể sử dụng quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tác động đến chủ thể khác nhằm đạt được mục tiêu nhà nước đặt ra. Nơi nào thực hiện quyền lực nhà nước thì nơi đó thuộc về “khu vực công”.
[2] Vì vậy, “cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước” là chủ thể có quyền lực nhà nước - quyền lực công, ví dụ: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư, quản lý. Từ đó cho thấy “khu vực ngoài nhà nước” là khu vực không thực hiện quyền lực công.
Thứ hai, dưới góc độ tài chính: Để xác định “khu vực nhà nước” hay “khu vực ngoài nhà nước” căn cứ vào sự tác động của tài chính công. Tác động của tài chính công được xác định theo hai tiêu chí bao gồm quản lý tài chính công và sử dụng tài chính công.[3] Theo đó:
(i) Khu vực nhà nước (khu vực công): Là những cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý tài chính công, ví dụ: cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, đơn vị sự nghiệp công lập,… Bên cạnh đó, một số tổ chức, đơn vị sử dụng tài chính công cũng được xem là chủ thể thuộc khu vực công, ví dụ: doanh nghiệp nhà nước; tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội ;
(ii) Khu vực ngoài nhà nước: Là những tổ chức, đơn vị không quản lý, sử dụng tài chính công hoặc có sử dụng tài chính công nhưng nguồn tài chính này không phải là nguồn chủ yếu. Ví dụ, các doanh nghiệp (không phải doanh nghiệp nhà nước); các tổ chức xã hội; tổ chức xã hội - nghề nghiệp;…
Tiếp cận từ hai góc độ nêu trên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã ghi nhận: Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không phải là cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước.[4] Trong đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội.
[5]
Hối lộ và đưa hối lộ trong khu vực ngoài nhà nước
Theo Từ điển Tiếng Việt, “hối lộ” được hiểu là “đưa tiền của cho người có quyền hành để nhờ làm việc có lợi cho mình, bằng hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc làm sai pháp luật”[6]. Tuy vậy, với cách giải thích này thì thuật ngữ hối lộ chỉ mới đề cập tới là hành vi của chủ thể “đưa” hối lộ mà chưa đề cập tới hành vi của các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ này như hành vi nhận hối lộ và hành vi môi giới hối lộ. Nghĩa là, tham gia vào quan hệ hối lộ có thể có các chủ thể sau:
(i) Người đưa hối lộ: là người trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích vật chất hoặc phi vật chất
[7];
(ii) Người nhận hối lộ: người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc trung gian nhận hoặc sẽ bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ
[8];
(iii) Người môi giới hối lộ: người có hành vi làm trung gian giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai bên để làm hoặc không làm một việc có lợi cho người đưa hối lộ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào hành vi tham nhũng phổ biến nhất, đó là hành vi đưa hối lộ.
Hành vi đưa hối lộ trong khu vực ngoài nhà nước gồm có những đặc điểm sau: (i) Chủ thể nhận hối lộ: cá nhân, tổ chức thuộc khu vực ngoài nhà nước. Trong đó, “khu vực ngoài nhà nước” là những cơ quan, đơn vị, tổ chức không thực hiện quyền lực nhà nước; không quản lý tài chính công; không sử dụng hoặc rất ít sử dụng tài chính công. (ii) Mục đích của hành vi đưa hối lộ: người nhận hối lộ bằng hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc làm sai pháp luật nhằm đem lại lợi ích cho người đưa hối lộ.
[4] Xem khoản 10, Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng Việt Nam 2018.
[5] Xem khoản 9, Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng Việt Nam 2018.
[6] HOÀNG PHÊ (2002), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB ĐÀ NẴNG, 459.
[7] Xem Điều 364 Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015.
[8] Xem Điều 354 Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015.